ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG SỐNG TRONG CÁC KỸ THUẬT THỰC HÀNH THIỀN, THIỀN QUÁN VÀ THIỀN CHỈ

(PHẦN II)

A. GIỚI THIỆU

Nghiên cứu này phân tích các khía cạnh triết học và phương pháp luận thực hành của Pháp Thiền Diệu Pháp Liên Hoa Việt Nam (PTDPLHVN), một pháp môn thiền định do Cư Sĩ. Thường Tri sáng lập và giảng dạy.

Dựa trên phân tích nội dung các bài đăng giảng trực tuyến của Cư Sĩ. Thường Tri và các tài liệu liên quan, nghiên cứu này làm rõ nền tảng kinh điển, các kỹ thuật thực hành năng lượng cốt lõi, và mục tiêu tu tập của PTDPLHVN.

Kết quả cho thấy PTDPLHVN là một hệ thống tổng hợp, lấy tư tưởng từ Kinh Pháp Hoa và Kinh Thủ Lăng Nghiêm, sử dụng năng lượng Qi/ Prana để khai mở hệ thống kinh lạc trong cơ thể (kế thừa từ tư tưởng Đạo Gia và Luân Xa tư tưởng Ấn Độ Giáo Cổ Đại).

Thông qua kỹ thuật "Mở Sáu Căn" để đạt trạng thái vật lý "rỗng toàn thân" và mục tiêu tối hậu là "Phá Sắc Uẩn", Nút thô trọng đầu tiên trong pháp tu tập “Mở 6 Nút”, nhằm đạt đến “Ngũ Uẩn Không”.

Nghiên cứu này đóng góp vào sự hiểu biết về các pháp thực hành thiền định đương đại tại Việt Nam, tập trung vào pháp môn do Cư Sĩ. Thường Tri khởi xướng.

Nền tảng kinh điển Đại thừa:

Pháp môn này lấy Kinh Pháp Hoa và Kinh Thủ Lăng Nghiêm làm tư tưởng cốt lõi, diễn giải các kinh này theo hướng thực hành và chứng ngộ trực tiếp.

*** Quý vị hãy tìm xem các bài đã đăng từ kỳ trước để rỏ nội dung chi tiết.

Phương pháp thực hành tứ trụ:

Cốt lõi của thực hành là "Đọc, Nghe, Nhìn, Trụ", nhằm mục đích gom tâm và khai mở 6 Căn nhờ dòng năng lượng Prana (Khí Thiên, Qi) đi vào cơ thể như là nguồn năng lượng sống cơ bản để chuyển hoá ở mức cao hơn.

Khai thác năng lượng Qi/ Prana:

PTDPLHVN chú trọng việc tiếp nhận và vận dụng năng lượng Qi/ Prana để thanh lọc cơ thể, phòng ngừa bệnh tật đồng thời cải thiện sức khoẻ ở mức cao, và làm nền tảng cho các bước tu tập cao hơn. Có sự đề cập đến việc khai thông "Huyệt Đạo", và là cả "Hệ Thống Kinh Lạc" trong cơ thể theo tư tưởng Đạo Gia và "Luân Xa".

Kỹ thuật mở sáu căn có hệ thống:

Một lộ trình chi tiết gồm nhiều bài tập được thiết kế để tuần tự mở sáu giác quan, dẫn đến những trải nghiệm tâm sinh lý đặc biệt và sự biến đổi nhận thức.

Mục tiêu tối hậu:

Thực chứng "Sắc tức thị Không": Trạng thái "rỗng toàn thân" được xem là sự thực chứng trực tiếp giáo lý Bát Nhã về tính Không của sắc uẩn. "Ngũ Uẩn Giai Không": Từ việc phá sắc uẩn, hành giả tiến đến nhận biết cả năm uẩn đều là không, từ đó đạt được "Thân rỗng, Tâm Không" và chấm dứt luân hồi sinh tử.

B. KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG KINH LẠC VÀ LUÂN XA

I. Giới Thiệu:

SƠ BỘ CẤU TẠO CỦA HỆ THỐNG KINH LẠC.

*** Hệ Thống Kinh Lạc (HTKL)

1. Đại cương
2. Cấu tạo của hệ thống kinh lạc

*** Huyệt Vị

1. Khái niệm
2. Các loại huyệt vị

*** Hệ Thống Kinh Lạc (HTKL) và Luân Xa (LX)

  1. Trong cơ thể có ba hệ thống Huyệt gồm: Đại Huyệt, Tiểu Huyệt và Trung Huyệt.
  2. Luân Xa là Đại Huyệt, Luân là quay, Xa là bánh xe, ý là bánh xe luân chuyển năng lượng. Trong cơ thể của chúng ta có 12 Luân Xa chính, 4 Luân Xa phụ ở tay và chân, tổng cộng là 16 Luân Xa (chính là bộ mạch Thái Ất của Đạo Gia).
  3. Trong khi đó các trường phái Khí Công ít khi sử dụng hết 16 Luân Xa này. Luân Xa Dương chạy trên Mạch Đốc, Luân Xa Âm chạy trên Mạch Nhâm. Hai huyệt Lao Cung ở trong lòng hai tay và hai huyệt Dũng Tuyền ở hai lòng bàn chân, là bốn Luân Xa phụ.
  4. Mạch Nhâm từ Huyệt Thừa Tương (Cằm dưới) chạy phía trước Ngực xuống đến Huyệt Hội Âm (vị trí nằm giữa bộ phận sinh dục và hậu môn)
  5. Mạch Đốc từ Huyệt Hội Âm chạy vòng phía sau (Lưng - Cột Sống) đến Huyệt Nhân Trung.
  6. Lưỡi giống như công tắc đóng, ngắt mạch dòng năng lượng, nếu Lưỡi đưa xuống hàm dưới là ngắt mạch. Lưỡi đặt lên hàm trên là mở mạch. Nên trong khi thực hành thiền phải đưa Lưỡi lên chạm Nướu trong Hàm trên.
  7. Điểm đường nối đường năng lượng trục giữ của cơ thể được tính từ Luân Xa 1 và Luân Xa 7 là Trục nối Thiên Địa, theo khí công là trục Hara, theo Tử Vi còn gọi là trục (Tý - Ngọ).
  8. Nếu đường năng lượng trục giữa thẳng thông thì thông khí với đất trời, Người này năng lượng cảm xạ tốt và chính xác. Người không tập luyện thì trục năng lượng Tý-Ngọ không thông được, mà không thông thì toàn bộ hệ thống kinh lạc khí huyết không thông ở mức cao dẫn đến sự suy giảm trao đổi chất trong cơ thể, hay sinh bệnh tật, suy giảm hoặc không thể nâng cao tuổi thọ.

*** Trên tuyến dọc này có 8 tuyến nội tiết chính:

II. Luân xa ứng huyệt và vị trí:

  1. Luân Xa 1: Huyệt Hội Âm, màu đỏ, là điểm giữa bộ phận Sinh Dục và Hậu Môn, là nơi chứa Hỏa Xà. Điểm tương ứng trên Khuôn Mặt là huyệt [Nhân Trung và Thừa Tương]
  2. Luân Xa 2 Dương: Huyệt [Trường Cường], màu cam, vị trí là đốt sống Xương Cụt, là nơi tụ chân hỏa khí.
  3. Luân Xa 2 Âm: Huyệt [Khúc Cốt], vị trí điểm giữa Xương Mu, phía trước trên mạch Nhâm.
  4. Luân Xa 3 Dương: Huyệt [Mệnh Môn], màu vàng. Vị trí giữa Cột Sống, đốt thắt Lưng 2, ngang Rốn, đo ra sau Lưng.
  5. Luân Xa 3 Âm: Huyệt [Thần Khuyết và Khí Hải] (Thần Khuyết là Rốn, Khí Hải dưới rốn 1,5cm, là Đan Điền Tinh (Đan Điền Địa) chủ về luyện nội công, sức khỏe, võ thuật, luyện khí. Tác dụng trị các bệnh về tiêu hóa.
  6. Luân Xa 4 Dương: Huyệt [Thần Đạo], màu Lục. Vị trí nằm trên đốt sống Lưng 4, 5.
  7. Luân Xa 4 Âm: Huyệt [Đản Trung] (đường cắt ngang giữa ngực và hai núm vú) và Huyệt Liệt Khuyết (chỗ lõm ở xương Ức) là Đan Điền Nhân (Đan Điền Tâm). Tác dụng chủ trị các bệnh về tim mạch và hệ thống tuần hoàn.
  8. Luân Xa 5 Dương: Huyệt [Đại Chùy], màu Xanh da trời. Vị trí đốt sống Cổ 7 (giao điểm hai bờ vai gặp nhau ở cột sống).
  9. Luân Xa 5 Âm: Huyệt [Thiên Đột] là Yết Hầu (chỗ lõm giao điểm giữa hai xương quai xanh). Tác dụng chủ trị các bệnh về hô hấp, Phổi.
  10. Luân Xa 6 Dương: Huyệt [Ngạch Chung] (điểm của hai đầu lông mày đo lên trán, chiều cao lấy theo chiều dài mắt của mình).
  11. *** Xác định vị trí của Trung Cung: Phía trước là huyệt [Ấn Đường] (giao điểm hai đầu lông mày) hoặc Ngạch Chung. Phía sau là [Huyệt Ngọc Chẩm] và [Phong Phủ] (cục lồi sau Ót) dưới Huyệt Á Môn). Màu Chàm (Xanh Lục pha đen) là Đan Điền Thượng. Chủ về luyện thần nhãn, con mắt thứ ba, luyện thôi miên (Đan Điền Thần). Chủ trị các bệnh về Thần Kinh.
  12. Luân Xa 7: Huyệt [Bách Hội, Thiên Môn], giao điểm giữa hai trục sống mũi đo lên và hai bên tai đo lên, màu tím. Chủ về thu Thiên Khí, phối với các Luân Xa khác mang tính chữa bệnh toàn thân và tứ chi, cũng như chữa bệnh ở các vùng đau.

Ghi chú: xem thêm hình minh hoạ, qui định màu sắc tương ứng vị trí tên gọi của mỗi Luân Xa là thuộc tư tưởng của người lập pháp, trên thực tế không có màu sắc.

Sơ đồ Hệ Thống Kinh Lạc và Luân Xa

Hình minh họa: Sơ đồ Hệ Thống Kinh Lạc và các Huyệt Vị chính trên cơ thể.

C. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ KỸ THUẬT THỰC HÀNH

Cốt lõi của "Pháp Thiền Diệu Pháp Việt Nam" xoay quanh bốn kỹ thuật chính được tóm gọn trong bốn chữ: “Đọc, Nghe, Nhìn, Trụ”. Mục tiêu của các kỹ thuật này là để gom tâm, khai mở 6 Căn; Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý, nhờ vào công phu đưa dòng năng lượng khí “Qi/ Prana” (năng lượng sống) vào cơ thể thông qua “Huyệt Đạo”, sau đó dẫn đến toàn bộ các “Huyệt Đạo” trên cơ thể nhờ “Hệ Thống Kinh Lạc”, từ đó giúp thân khỏe, tâm an, và sau đó tiến sâu hơn trên con đường tu tập.

I. Kỹ Thuật Cơ Bản

Giai đoạn cơ bản tập trung vào việc làm quen và thực hành bốn kỹ thuật cốt lõi:

  1. Đọc: Kỹ thuật này không chỉ đơn thuần là đọc kinh văn bằng mắt. "Đọc" ở đây mang ý nghĩa là nhất tâm đọc thầm một câu kinh, một danh hiệu Phật hoặc một câu chú ngắn. Việc đọc thầm liên tục giúp tâm trí không bị phân tán bởi những suy nghĩ lan man, dần dần gom tâm lại một chỗ.
  2. Nghe: Là lắng nghe chính âm thanh của việc đọc thầm bên trong. Khi tâm đã tập trung vào việc đọc, hành giả tiếp tục chú ý lắng nghe âm thanh vi tế đó. Điều này giúp tăng cường sự định tâm và đưa hành giả vào trạng thái tĩnh lặng sâu hơn.
  3. Nhìn: "Nhìn" ở đây không phải là nhìn bằng mắt thường mà là dùng tâm để "Nhìn" hoặc "Quan Sát" một điểm trên thân thể. Điểm này thường là Đỉnh Đầu (huyệt Bách hội) hoặc một Căn, hoặc một trung tâm năng lượng (Luân Xa) khác. Việc "Nhìn" này giúp ý thức tập trung cao độ vào một điểm.
  4. Trụ: Đây là kỹ thuật then chốt, là kết quả của ba kỹ thuật trên. Khi đã đọc thầm, lắng nghe và hướng tâm nhìn vào một điểm, hành giả giữ Tâm Ý "Trụ" lại tại điểm đó. Việc an trụ tâm một cách vững chắc và liên tục tại một điểm trên thân được cho là sẽ khai mở các huyệt đạo, giúp cơ thể tiếp nhận dòng năng lượng Qi/ Prana từ vũ trụ.

Khi mới bắt đầu, hành giả có thể cảm thấy đau, căng tức, nóng hoặc mát, hoặc nhột ngứa hoặc nhói ở điểm trụ. Theo pháp thiền này, đây là dấu hiệu của việc dòng năng lượng khí đang tác động để khai mở những bế tắc, hoặc mở thông con đường cho năng lượng vi tế đi qua. Người thực hành cần kiên nhẫn chịu đựng, và khi cơn đau qua đi, họ sẽ cảm nhận được một dòng năng lượng mát mẻ, dễ chịu đi vào cơ thể, càng siêng thực hành chuẩn chỉ thì dòng năng lượng tưới tẩm vào cơ thể đến từng cơ quan nội tạng, tuỷ cốt, nang lông, tế bào và trở nên mạnh mẽ theo thời gian.

II. Kỹ Thuật Nâng Cao

Khi đã thực hành thuần thục các kỹ thuật cơ bản và dòng khí Prana đã có thể lưu thông, hành giả sẽ bước vào giai đoạn nâng cao, tập trung vào việc vận dụng và điều khiển dòng năng lượng này:

  1. Thông Khí Toàn Thân: Từ điểm trụ ban đầu (thường là đảnh đầu), sau đó hành giả dùng ý và lực dẫn dắt dòng năng lượng khí Qi/ Prana đi đến các bộ phận khác trên cơ thể. Mục đích là để đả thông kinh mạch, chữa lành các bệnh tật và tăng cường sức khỏe tổng thể.
  2. Khai Mở Lục Căn (thuộc về cơ thể vật chất): Khi năng lượng Prana lưu thông vào cơ thể đã đủ mạnh, nó có thể được dùng để thanh lọc và khai mở sáu giác quan (lục căn): Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý. Để làm được việc này, hành giả cần thực hiện thực tập thông qua một bộ pháp theo lộ trình có phương pháp cụ thể, tông chỉ và yếu chỉ cần nắm rỏ để thực hành, nhận dạng trạng thái diễn ra trên thân để từ đó tránh được các sai lầm mắc phải, nó đến từ việc hiểu sai cách hành, hoặc do tưởng tượng của bộ não gây ra thông tin sai lệnh.
  3. Khai mở 6 Nút (thuộc về Tánh): Đây là giai đoạn thực hành “bỏ Thức dùng Căn”, tiến trình gỡ 6 Nút thắt thuộc về Ngũ Uẩn. Tiến trình này là tu tập trên Tánh, hoặc có thể song tu trong quá trình khai mở lục căn.

*** Ghi chú: Hành giả xem bài đăng kỳ trước để hiểu rỏ nội dung.

4. Thân Tâm Hợp Nhất và Ngũ Uẩn Giai Không: Khi “Lục Căn” đã thanh tịnh và dòng năng lượng lưu thông khắp cơ thể, hành giả sẽ tiến đến trạng thái thân tâm hợp nhất, cảm nhận sâu sắc sự trống rỗng, vô thường sắc thân, cảm thọ và tri giác. Đây là bước đệm để chứng nghiệm giáo lý "Ngũ Uẩn Giai Không" (năm yếu tố cấu thành con người đều là không thật), từ đó đoạn trừ khổ đau và đạt đến giải thoát.

III. Kỹ Thuật Thực Hành & Đối Chiếu

  1. Để bắt đầu về phương pháp thực hành này, Tôi sẽ trích một số bài kệ của Phật Gia và Lão Tử như sau:

    Phật tại Linh Sơn, khỏi tìm đâu,
    Linh Sơn ở tại nhữ Tâm Đầu,
    Ai ai cũng có Linh Sơn tháp,
    Hãy hướng Linh Sơn tháp mà tu.
    Đại đạo căn cơ ít kẻ hay,
    Hằng ngày dùng nó vẫn không hay,
    Vì ngươi, chỉ rõ “Thần Tiên Quật”,
    Cong cong một khiếu tựa lông mày.

    Tiếp theo bài kệ của Cát Tiên Ông:

    .
    Kiền Khôn hợp xứ gọi Chân Trung,
    Ở giữa Hư Vô, rộng mênh mông.
    Rồng Cọp bắt về tàng trong đó,
    Chốt then Tạo Hóa nắm như không.

    Tiếp theo bài kệ của Liễu Công Viễn:

    .
    Một Khiếu Hư Vô giữa đất trời,
    Triền miên bí mật, gió không chui.
    Khiếu đó sắc trần không có bợn,
    Chân Nhân coi nó, ngọc châu thôi.
  2. Chân Tâm và Vọng Tâm: Vọng tâm trong ta chính là Thức vậy. Tâm vốn lặng yên, nhờ Thức mới biết, Tính vốn vô sinh, nhờ Thức mới sinh Vọng Tâm. Hành giả muốn tiêu trừ vọng tâm thi phải biết quán chiếu bản tâm, vọng tâm chính là Thức thần, là lục Thức. Vậy muốn tiêu trừ lục Thức thì phải biết giữ đôi mắt, đôi mắt là tiên phong của ngũ tặc. Tâm là then chốt, mắt là giặc trộm, muốn hàng phục Tâm, trước phải nhắm mắt. Tới đây, quý vị đã hiểu vì sao cần phải “Đọc (Niệm), Nghe, Nhìn (Quán), Trụ” rồi chứ, đó chính là phép hàng phục lục Thức, quay về với Chân Tâm. Để tiếp nhận nguồn năng lượng sự sống vi tế, nguồn gốc, bản chất là Mẹ của vạn vật (Qi, Prana Energy…và nhiều tên gọi khác), chúng ta quay về với cơ thể của mình, điểm đầu và điểm cuối của thân thể này (trục Tý Ngọ, được nêu trong phần B, mục I, đề mục hệ thống kinh lạc và luân xa). Ứng với các câu khẩu quyết được trình bày như bài kệ ở mục III trên, hành giả thực hành công phu này, hãy nhắm mắt và đem cái “NHÌN” hướng lên Đảnh Đầu và bắt đầu phép điều phục tâm, chọn một câu Kinh ngắn, câu niệm Phật, câu Chú…làm phương tiện để “ĐỌC”, đồng thời “NGHE” chính câu mình đang đọc. Quan sát các hiện tượng diễn biến trên Đảnh Đầu, nếu có xuất hiện các trạng thái như: nóng râm ran, hoặc mát lạnh, hoặc châm chích, hoặc cảm giác trì nặng, nhói buốt thì hãy bám “TRỤ” vào một trong các hiện tượng này. Quý vị thực hành đúng như thế, thời khắc nào đó sẽ nhận thấy một luồng năng lượng thanh nhẹ mát mẽ đi xuyên vào bộ đầu, cái mát hoặc nóng ấm có thể tuỳ cơ địa mỗi người, xen lẫn với cảm giác thanh nhẹ ở giai đoạn đầu có thể cảm thấy hơi buốt nhưng sau vài ca thiền sẽ dần giảm đi. Sau khi đã khai mở, quý vị cứ dành thời gian thực tập, năng lượng sống vi tế sẽ đi vào thân thể càng nhiều và sẽ có những chuyển hoá rỏ ràng, dễ dàng nhận biết thông qua các cảm giác trên thân và một số biểu hiện về màu sắc của da, tinh thần trở nên thoải mái, nhanh nhạy, cảm ngộ về các thông tin trở nên minh triết hơn.

    Nhìn nhận gốc độ khoa học và thuyết huyệt đạo kinh lạc:

    Khai mở Đại Đảnh ứng với Huyệt Đạo có tên Bách Hội (GV20) và Tứ Thần Thông (HN1), điểm giao nhau của hai đường kinh lạc chính: Mạch Nhâm và Mạch Đốc. Khi năng lượng vi tế (Qi/Prana) đi vào trung tâm bộ đầu sẽ tác động hai tuyến nội tiết chính đó là “Tuyến Tùng” nằm ở vùng thượng đồi và “Tuyến Yên” nằm vùng dưới đồi.

    • Tuyến tùng có hình dạng giống như một quả thông nhỏ (do đó có tên là "tuyến tùng"), kích thước chỉ bằng hạt đậu. Vị trí trung tâm của nó khiến nó trở thành một trong những cấu trúc được bảo vệ tốt nhất trong não. Chức năng chính được biết đến rộng rãi nhất của tuyến tùng là sản xuất và tiết ra melatonin, một hormone có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh chu kỳ thức - ngủ (nhịp sinh học) của cơ thể. Quá trình sản xuất melatonin bị ảnh hưởng bởi ánh sáng: trời tối sẽ kích thích tuyến tùng tiết ra nhiều melatonin hơn, gây ra cảm giác buồn ngủ. Tuyến Tùng có liên hệ chặt chẽ với Huyệt Bách Hội, Huyệt Ấn Đường, Huyệt Thần Đình, và là tuyến nằm trên mạch Đốc. [1]
    • Tuyến Yên nó tọa lạc tại sàn não, trong một hốc xương có tên là Hố Yên (sella turcica) của xương bướm, ngay phía sau gốc Mũi. Vị trí này có sự liên quan mật thiết với các cấu trúc quan trọng khác của não bộ, đặc biệt là vùng dưới đồi. và là điểm giữa của Nhĩ Căn, nằm trên mạch Đốc, có liên quan tới huyệt Ấn Đường (HN3). [2]

    Khai mở Đại Đảnh sau một thời gian sẽ mở rộng các Huyệt Đạo gọi là Tứ Thần Thông (HN1) xung quanh Bách Hội (GV20).

  3. Khai Mở Lục Căn (thuộc về cơ thể vật chất)

    Các nội dung dưới đây, tôi không trình bày pháp thực hành chi tiết mà đi vào khái lược, nhận dạng pháp này tương ứng với “Học Thuyết Kinh Lạc (Đạo Gia), Luân Xa (Ấn Độ Giáo) và có thể một số trường phái khác.

    • Khai Mở Nhĩ Căn (Tai): Khi cơ thể tiếp nhận năng lượng sự sống (Qi, Prana) dồi dào, quá trình trước đó đã khai mở Đại Đảnh dẫn đến năng lượng này tác động đến Tuyến Tùng, Tuyến Yên, đồng thời lưu chuyển dòng năng lượng trên các đường Kinh Lạc và Huyệt Đạo tương ứng trên cơ thể (xem thêm phần Học Thuyết Kinh Lạc đã đăng kỳ trước). Giai đoạn này, quý vị sẽ nhận thấy các dấu hiệu như; hơi nhức nhức trong màng nhĩ, ốc tai, nghe âm thanh lùng bùng khi mình nói chuyện hoặc từ bên ngoài, cảm giác như có dòng khí chảy bò bò vào ống tai, trên hai vành tai có dòng khí lan man bò vào khoang của vành tai. Đây là giai đoạn vàng ngọc để thực hành khai mở Nhĩ Căn. Quý vị hãy "Đọc, Nghe, Nhìn, Trụ" trực tiếp trên hai vành tai và chờ đợi dòng khí kéo vào tương đối đều giữa hai ống tai, sau đó dùng lực kéo từ từ cho nó tiến sát vào giữa tai và kéo mạnh nhưng vừa đủ để cho hai dòng khí này nối lại. Nối được rồi thì hãy giữ đường nối như thế chờ cho nó hoạt động đến khi tan rã là xong ca thiền. Mục đích kéo nối hai dòng năng lượng giữa hai Tai vào nối tại điểm giữa thuộc khu vực Tuyến Yên. Sau đó, do sự hoạt động của dòng năng lượng này sẽ phóng thích làm mở nhóm Huyệt Đạo trên Mạch Đốc : Não Hộ (GV17), hai huyệt Ngọc Chẫm (G19), Cường Gian (GV18), Phong Phủ (GV16), ngoài ra còn có hai huyệt Hoàn Cốt (G12), hai huyệt Phong Trì (G20). [3] Điểm giữa của hai Tai tức là vùng Tuyến Yên, như một cái van khoá được mở rỗng nhằm đưa năng lượng sống đi từ Đại Đảnh chảy qua về thân dưới. Nhĩ Căn được khai mở hoàn toàn sẽ tác động đến các Căn khác : Thiệt Căn, Ý Căn, Nhãn Căn, Tỷ Căn. Lý do các nhóm huyệt đạo trên mạch Đốc như trình bày ở trên được khai mở, dòng năng lượng được lưu chuyển từ Bách Hội và dòng năng lượng chảy bên trong qua các tuyến : Tuyến Tùng, Tuyến Yên. (Xem thêm sự liên quan về Học Thuyết Kinh Lạc đã đăng kỳ trước)
    • Khai Mở Thiệt Căn (Lưỡi): Nhĩ Căn được khai mở dẫn đến Thiệt Căn có các hiện tượng như nhiễu nhiều nước bọt, tê Răng, Lợi, Lưỡi và tiến hành khai mở Căn này. Nguyên nhân : Đầu Lưỡi chạm hàm trên kết nối Nhân Trung (GV26), Thừa Tương (GV24) chuyển dòng năng lượng vào toàn bộ Lưỡi, đồng thời Giáp Xa (S6), Địa Thương (S4) cùng kéo năng lượng vào cuống Lưỡi, Chân Răng. Ngoài ra, một dòng năng lượng đường giữa từ Đảnh Đầu đi qua điểm giữa Nhĩ Căn kéo thẳng xuống cuống Lưỡi. Khi Khai mở sẽ mở rỗng Huyệt Liêm Tuyền (CV23) ở ngay cuống Lưỡi, năng lượng này phóng thích ra các nhóm huyệt ở Ót Gáy : Não Hộ, Ngọc Chẫm.
    • Khai Mở Ý Căn (Ý thức): Cũng như vậy, dòng năng lượng từ Đại Đảnh đi lưu thông qua Tuyến Tùng (xem ở [1]), tuyến này lại lưu thông với Mạch Đốc, tác động Huyệt Ấn Đường, Thần Đình. Do Nhĩ Căn được khai mở nên các nhóm huyệt đạo như ở [3] hoạt động mạnh mẽ, năng lượng vi tế chạy qua các đường kinh lạc thông suốt hơn, nhóm các huyệt như Dương Bạch (G14), Hàm Yến (G4), Huyền Lư (G6), Suất Cốc (G8), Thiên Xung (G9), Cường Gian (GV18) xung động mạnh tạo nên cảm giác như trên đầu có vòng kim cô bao quanh, cảm giác căng tức. Đây là giai đoạn cần tiến hành mở Ý Căn. Khi Ý Căn được mở, chính là vùng năng lượng điểm giữa của Tuyến Tùng mở rỗng ra, nó được mở rỗng thì dòng năng lượng vi tế từ Đại Đảnh đi qua càng nhiều và mạnh mẽ, chảy thông suốt đi qua vùng năng lượng Tuyến Yên, qua vùng năng lượng tại Yết Hầu tức là vị trí Huyệt Liêm Tuyền.
    • Khai Mở Nhãn Căn (Mắt): Vị trí Nhãn Căn là huyệt đạo nằm ở điểm giữa và phía sau Con Ngươi (sau Tròng Mắt) của Mắt, tên khoa học của huyệt này Huyệt Cầu Hậu (EX-HN7): Huyệt Đạo "Phía Sau Nhãn Cầu", nó nằm bờ dưới xương hốc Mắt. Đây là một huyệt vô cùng quan trọng và được xem là một trong những huyệt đặc hiệu nhất để điều trị các bệnh khó và phức tạp ở vùng đáy mắt. Chức năng chính của nó là thông kinh hoạt lạc, làm sáng mắt (minh mục), và nuôi dưỡng thần kinh thị giác. Sau khi mở Nhĩ căn dẫn đến tác động các nhóm huyệt đạo sau: Ty Trúc Không (T23), Đồng Tử Liêu (G1), Toản Trúc (B2), Tinh Minh (B1), Thừa Khấp (S1), và Phong Trì (G20) ở Ót Gáy. Dù không nối trực tiếp, huyệt Phong Trì (GB-20) nằm trên kinh Đởm (Gallbladder Meridian). Đường kinh này có một "vùng ảnh hưởng" rộng lớn ở phần bên của đầu. Nó chạy lên sau gáy, vòng qua tai và đến khóe mắt ngoài (kết thúc ở huyệt Đồng Tử Liêu G-1, ngay cạnh mắt). Giai đoạn này, quý vị sẽ thấy các hiện tượng như hơi mỏi mắt, cảm giác như có gì đó dính dính giống gèn của mắt, có thể có nhiều nước mắt hơn. Đây là giai đoạn tiến hành khai mở Nhãn Căn. Nhãn Căn khai mở sẽ kéo hút dòng năng lượng từ hướng Mắt đi sâu ngược ra Ót Gáy, dòng năng lượng này thực ra là sự lưu thông năng lượng mạnh mẽ trên đường Kinh Đỡm. Sau khi năng lượng hội tụ sau Ót Gáy tan rả, quý vị sẽ nhận thấy như Van Khoá được mở rỗng ra, lúc này đón nhận dòng năng lượng trở nên thông suốt hơn từ Đỉnh Đầu đi qua Ý Căn, Nhĩ Căn đến Nhãn Căn
    • Khai Mở Tỷ Căn (Mũi): Vị trí Tỷ Căn được xác định là 2 huyệt Tinh Minh, Khóe mắt trong, cạnh gốc Mũi, Huyệt Toản Trúc (BL-2) nằm ở chỗ lõm đầu trong của lông mày, thẳng trên khóe mắt trong, Huyệt Tố Liêu (DU-25) nằm ở ngay chóp mũi, tại điểm cao nhất, Huyệt Nghinh Hương (LI-20) có vị trí nằm ở điểm gặp nhau của đường ngang qua chân cánh mũi và rãnh mũi-má (pháp lệnh), cách cánh mũi khoảng 0.5 thốn, Huyệt Tố Liêu (DU-25) có vị trí nằm ở ngay chóp mũi, tại điểm cao nhất. Cuối cùng là Huyệt Ấn Đường (EX-HN3) nằm ở trung điểm của đường nối hai đầu lông mày, ngay trên gốc Mũi. Sau khi mở Nhĩ Căn và các Căn tuần tự như trên, dòng năng lượng vi tế đỗ mạnh theo mạch Đốc, các huyệt đạo được mô tả như trên hoạt động mạnh, quý vị sẽ nhận thấy các dấu hiệu như có một dòng khí hay chạy vọt qua dọc trong mũi, có người cảm nhận hơi buốt, hoặc chảy nước mũi. Đây là giai đoạn cần thực hành khai mở Tỷ Căn. Chọn 2 huyệt đạo Tinh Minh là khu vực điểm giữa của Mũi để “TRỤ”. Khi dòng năng lượng hoạt động sẽ có hiện tượng toàn bộ Mũi như sụp lún sâu trong mặt và căng ngang ra sau Ót Gáy. Sau khi năng lượng hội tụ sau Ót Gáy tan rả, quý vị sẽ nhận thấy như Van Khoá được mở rỗng ra, lúc này đón nhận dòng năng lượng trở nên thông suốt hơn từ Đỉnh Đầu đi qua Ý Căn, Nhĩ Căn, Nhãn Căn, Tỷ Căn rồi thông tới Thiệt Căn. Vậy quý vị sau khi khai mở Đảnh Đầu, Nhĩ Căn, Thiệt Căn, Ý Căn, Nhãn Căn, Tỷ Căn, chúng đã xây dựng được một trục năng lượng dọc tâm bộ đầu tương đối rỗng. Dòng năng lượng này tiếp tục đi về thân dưới, và nếu thân dưới rỗng nữa thì chúng ta có một cái trục Tý Ngọ hoàn chỉnh.
    • Khai Mở Thân Căn: Xúc Căn và Thân. Giai đoạn này, sau một thời gian công phu hành thiền, năng lượng vi tế đã hoạt động luân chuyển tương đối đầy đủ trên các tuyến mạch kinh lạc chính, và các huyệt đạo chính, đi từ bên trong thân thể cho đến bề mặt bên ngoài; dưới các lớp da, trên lớp da.

      Khai Mở Xúc Căn: Quý vị sẽ dễ dàng nhận thấy các dấu hiệu này, ví dụ lớp da thường có châm chích như rôm sảy khi có mặt trời chiếu vào thời điểm ban sáng, hoặc cảm giác như làn nước mỏng chảy lan man trên bề mặt, hoặc có khi trên bề mặt da như nỗ lách tách, có khi cảm giác như dòng điện xung phóng từ bề mặt da này qua bề mặt da khác. Đây là giai đoạn cần thực hành khai mở Xúc Căn. Khai mở Xúc Căn, giai đoạn đầu quan sát toàn bộ bề mặt da của Mặt, giai đoạn sau thì quan sát toàn bộ da của toàn bộ đầu, giai đoạn 3 là quan sát toàn thân. Khi khai mở, dòng năng lượng toàn thân trên bề mặt da sẽ kéo rút qui tụ tại Bách Hội, sau đó cảm nhận có một dòng năng lượng mạnh mẽ từ Đảnh Đầu chạy thẳng trong thân với cảm giác sảng khoái, nhẹ nhàng.

      Khai Mở Thân: Tuỳ theo khả năng của quý vị, có thể mở bao nhiêu điểm trên thân thì hình thành bấy nhiêu vùng năng lượng tương ứng. Tuy nhiên, trong phần giới thiệu của tôi chỉ chú trọng 3 điểm hoặc 4 điểm chính là đủ cho việc triển khai các kế hoạch tiếp theo.

      *** Vùng năng lượng điểm thứ 1 (Khúc Thân 1) Vị trí là Huyệt Thiên Đột và Đại Chuỳ (xem giới thiệu phần trên và hình minh hoạ) Cách công phu: Đọc, Nghe, Nhìn, Trụ tại vị trí huyệt Thiên Đột (chỗ Yết Hầu), nó chuyển động và đưa cái Nhìn ra huyệt đối diện phía sau lưng là huyệt Đại Chuỳ, nó sẽ hoạt động. Cả hai huyệt vị này cùng hoạt động đồng thời và chúng sẽ kết nối với nhau tạo thành một đường năng lượng và sau đó tạo một vùng năng lượng ở giữa đường nối này. Quá trình hoạt động cho đến khi tan rã thì quý vị sẽ thấy nó như mở rỗng ra, cái van khoá được mở ra, một dòng năng lượng từ Đảnh Đầu qua các Căn chạy vọt qua, và kết hợp với chính nó đỗ mạnh xuống thân dưới. Như vậy sau ca thiền chúng ta xây dựng được một vùng năng lượng trục giữa do hai huyệt vị này tạo ra.

      Một cách tương tự:

      *** Vùng năng lượng điểm thứ 2 (Khúc Thân 2): huyệt Đản Trung và huyệt Linh Đài.

      *** Vùng năng lượng điểm thứ 3 (Khúc Thân 3): huyệt Thần Khuyết và huyệt Mệnh Môn.

      *** Vùng năng lượng điểm thứ 4 (Khúc Thân 4): huyệt Khúc Cốt và huyệt Trường Cường.

      ...
      ...
      *** Đến đây, sau khi quý vị đã thực hiện khai mở: Đảnh Đầu, 5 Căn; Nhĩ Căn, Ý Căn, Nhãn Căn, Tỷ Căn, Thiệt Căn và cuối cùng là Thân Căn. Các vùng Năng Lượng được xây dựng tương đối gọi là cơ bản, ứng với các 7 Tuyến Nội Tiết trong cơ thể:

      • Tuyến Tùng: do khai mở Đảnh Đầu, Huệ Nhãn, Ý Căn, Xúc Căn.
      • Tuyến Yên: do khai mở Đảnh Đầu, Huệ Nhãn, Nhĩ Căn.
      • Tuyến Giáp: do khai mở Đảnh Đầu, Tỷ Căn, Thiệt Căn, Khúc 1 của cặp huyệt đạo: Thiên Đột (vị trí Yết Hầu) và Đại Chuỳ (đối diện Thiên Đột).
      • Tuyến Tuỵ: do khai mở Khúc Thân của hai huyệt đạo: Trung Quản, có vị trí trên Rốn 4 thốn (6-8cm) và Trung Khu (GV7) sau lưng, đối xứng với Trung Quản. Ngoài ra có một số huyệt đạo khác.
      • Tuyến Ức: do khai mở Khúc Thân 2 của hai huyệt đạo: Đản Trung (ức ngực) và Linh Đài sau lưng, nó nằm đối xứng với Đản Trung. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng do mở Khúc Thân 1, Khúc Thân 3.
      • Tuyến Thượng Thận: do khai mở Khúc Thân 3, huyệt Thần Khuyết (ngay Rốn) và Mệnh Môn nằm sau lưng, đối diện Thần Khuyết. Ngoài ra còn có một số huyệt đạo khác, xa nhất là Dũng Tuyền (trong lòng gan bàn chân).
      • Tuyến Sinh Dục: do các nhóm huyệt: Quan Nguyên, Mệnh Môn, và Thận Du, Âm Giao, Hội Âm và Khúc Thân 4.

      Nếu mở thêm Khúc Thân của hai huyệt đạo: Khí Hải dưới Rốn 1.5 thốn và huyệt Yêu Dương Quan sau lưng, đối diện Khí Hải cũng tạo nên vùng năng lượng tác động mạnh mẽ cho tuyến này. Sau này có thể mở thêm huyệt đạo Hội Âm là hoàn thiện. Để thông thương cần xây dựng thêm đường trục năng lương giữa thân, tức là trục Tý Ngọ như đã nhắc ở trên. Khi trục năng lượng giữa thân hoàn thiện sẽ kết nối đi qua thông thương 7 tuyến nội tiết chính này, chúng sẽ bổ trợ cho nhau trong việc đã thông kinh mạch, khí và giúp nâng cao sức khoẻ toàn diện, đồng thời phát triển Thân Kim Sắc cho mục đích hoà với năng lượng bản thể tự nhiên.
      ...
      ...

    • Phẩm Dược Vương Bồ Tát và Khai Mở Huệ Nhãn:

      Thực hành Phẩm Dược Vương:

      • Mở lại từng căn quay vòng: Nhĩ Căn => Thiệt Căn => Ý Căn => Nhãn Căn => Tỷ Căn => Xúc Căn => rồi quay vòng lặp.

      Có thể đau nhức hai cánh tay dẫn đến mở huyệt Lao Cung ở trong lòng của hai bàn tay.

      Khai Mở Huệ Nhãn:

      • Quý vị tập trung nhìn thẳng giữa hai chặng mày tức là huyệt Ấn Đường, không nhìn vào, không nhìn ra. Tại đây sẽ xuất hiện một vùng năng lượng xoáy mạnh và sau đó căng ngược sau Ót Gáy, cảm giác cái căng ngược đó sâu thẳm, chờ cho tan rã thì xong ca thiền. Lúc này Huệ Nhãn đã mở.
      • Tiếp tục, tập trung nhìn thẳng giữa Trán, vị trí cách huyệt Ấn Đường khoảng 1 đến 1.5 thốn, đó chính là huyệt Ngạch Chung. Cũng tương tự như trên, quý vị cứ chờ cho tan rã thì xong ca thiền.

      ...
      ...

    • Mở 6 Căn Cùng Một Lượt (Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát):

      Phần này sẽ đăng vào kỳ sau cùng với phần “Khai Mở 6 Nút” thuộc về Tánh.